Nội dung câu chuyện nói về nhân vật bà Hiền, trải qua bao thời kí, bao biến cố lịch sử nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp “thuần túy” của một con người thuộc giới thượng lưu Hà Nội xưa. Bà Hiền thuộc về một “lớp người không còn vương sót lại là bao” – một thứ “Hà Nội vang bóng một thời”. Ở lớp người ấy toát lên phần hồn của mảnh đất đế đô nghìn năm.
Bằng tình yêu và cảm hứng ngợi ca, Nguyễn Khải đã khắc họa và để cho nhân vật của mình tỏa sáng ở phần cuối tác phẩm.
Nhân vật bà Hiền trong phần này “đã già hẳn”, “ngoài bảy mươi”, nhưng cô vẫn là “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”. Ngay đoạn mở đầu, tác giả đã ưu ái dành tặng nhân vật này những lời nhận xét chân tình như vậy. Ở bà Hiền, chứa đựng hầu như tất cả những phẩm cách điển hình, tiêu biểu của một người Hà Nội gốc. Đó là lối sống lịch lãm, sang trọng, quý phái với nơi tiếp khách lịch sự, cổ kính, “suốt mấy chục năm không hề thay đổi”. Là sự tinh tế, sành điệu của một người chơi hoa thủy tiên. Là phong thái ung dung của một cụ bà đang “lau đán bát thủy tiên men đỏ” trong không khí “mưa rây lả lướt” như “tết quá”, “Hà Nội quá” hay sự “bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên”.
Để tô đậm vẻ đẹp này, nhà văn đã so sánh cuộc sống “bình lặng, thanh tĩnh trong ngôi nhà của bà Hiền với lối sống “ồ ạt, xô bồ, vụ lợi” ở ngoài kia. Vậy mới thấy rằng những nét đẹp như thế thật hiếm hoi, bền bỉ và đáng quý.
Bản thân bà Hiền đã là một nét đẹp, nhưng đáng quý hơn, bà là người biết gìn giữ và lưu truyền những nét đẹp của một nền văn hóa, một thời kì xưa cũ, trầm mặc. Điều đó chứng tỏ bà là người yêu thiết tha mảnh đất đế đô, yêu thiết tha những giá trị văn hóa của đất kinh kì.
Và tình yêu của bà Hiền gắn với một niềm tin bền vững. Trước cuộc sống mới xô bồ, náo nhiệt và nhiều đổi thay, bà “không bình luận một lời nào”. Trước thái đội bất bình của cháu Khải, bà bình thản kể câu chuyện cây si đền Ngọc Sơn. Sự nhạy cảm của bà trước điềm xấu, sự ra đi của một thời đã đủ để nói lên nét sâu sắc của một tâm hồn Hà Nội. Nhưng niềm lạc quan của bà còn ý nghĩa hơn khi cho ta thấy được một tầm nhìn rất sâu xa, như thể bà đã chạm được vào điều cốt lõi, thường hằng, tinh túy của linh hồn Hà Nội. Với bà, thời nào Hà Nội cũng đẹp “một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”. Tầm nhìn của bà Hiền không hạn chế ở những điều đang diễn ra mà còn mở rộng ra ở những điều không thể thấy, bao quát cả những gì đã và sẽ diễn ra. “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”. Nhật định ấy của bà khiến “tôi” phải thốt lên: “Cô muốn mở rộng sự tính toán của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình không thể biết, nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lí sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết”. Lời văn như dẫn dắt ta tìm đến với cõi tâm linh.
Ngợi ca vẻ đẹp, cốt cách, trí tuệ của bà Hiền, Nguyễn Khải không áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên đọc giả mà ông chỉ kể chuyện bằng giọng văn đậm chất suy tư và giàu tính đối thoại. Ông không ngợi ca một chiều mà tái hiện trong trang văn cả những nét đẹp và nét xấu của Hà Nội dưới tầm mắt của hai con người, khiến cho tư tưởng và chủ đề của bài viết vừa không bị gò bó vừa giàu tính thuyết phục. Cái đẹp bình lặng và trường cửu đặt trong sự đối lập với cái xấu xí, hỗn độn, phù phiếm nhất thời đã tự thân nó nổi bật lên.
Tuy vậy, trong phần này ta vẫn phải nhắc đến một điểm trừ ở câu văn: “Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, ý hệt một bà già nhà quê”. “Một bà già nhà quê” thì không có gì xấu, “thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm” cũng không có gì là không ổn. Đến tuổi của bà Hiền, khi mọi vốn sống và suy nghĩ đã trở nên chin muồi, con người tự dưng mở rộng sự hiểu biết lên thêm một tầng nữa, hướng về cõi tâm linh âu cũng là điều dễ hiểu. Và cuộc sống phong phú, hài hòa với cái toàn thể thì không chỉ gắn với nững tính toán của lí trí. Cho nên bà Hiền không cần thiết phải “than thở” bởi bà đang đi đúng đường. Không biết vô tình hay hữu ý, cái hay là câu văn ẩn hiện chút kiêu kỳ của người Hà Nội... Nhưng xét về tổng thể, chúng ta vẫn có thể đồng ý với nhân vật Khải rằng: “Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá”. Khiêm tốn và rộng lượng” bởi trước những đổi thay của đời sống, bà không thất vọng, không chỉ trích bất kì ai. Bà biết xã hội thời kỳ mới có những cái hỗn độn nhưng “thiên địa tuần hoàn”, “không thể lường trước được”.
Tác phẩm khép lại với hai câu văn rất “đắt”, đánh dấu sự lắng đọng, thăng hoa của cảm xúc; sự lên ngôi của những nét đẹp cổ kính; sự tôn vinh những con người cao quý như bà Hiền và niềm tự hào, tin yêu cũng như khát vọng ngầm của tác giả về một Hà Nội ngày mai: “ Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của hà nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội, hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng”. Một hạt bụi vàng nhỏ bé mà quý giá, nhiều hạt bụi vàng mượn gió bay lên sẽ làm đất kinh kì lấp lánh ánh vàng. Ánh vàng ấy là phẩm giá, truyền thống, cốt cách của con người Hà Nội, “Hà Nội linh thiêng và hào hoa”. Bà hiền, con người hội đủ tất cả những yếu tố trên, được tác giả yêu mến gọi là “Một người Hà Nội”, một “hạt bụi vàng”…
Với một kết thúc đậm chất thơ, bà Hiền và những con người như bà đã được tác giả tôn vinh, cho lên ngôi. Qua đó, có thể nhận thấy rằng: tài năng của Nguyễn Khải cũng là một hạt bụi vàng lấp lánh của nền văn học thời kỳ mới.
Du Li

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét